Khám Phá

Ai là người lãnh đạo nghĩa quân Lam Sơn chống lại quân Minh?

Ai là người lãnh đạo nghĩa quân Lam Sơn chống lại quân Minh? Đây là từ khóa được tìm kiếm nhiều nhất hôm nay, dưới dây ldg.com.vn giải đáp Ai là người lãnh đạo nghĩa quân Lam Sơn chống lại quân Minh, một cách chi tiết và chính xác. Cùng tham khảo ngay nhé!

Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn (1418-1427) là một cuộc nổi dậy chống lại cuộc xâm lược của quân Minh, được lãnh đạo bởi Lê Lợi. Cuộc khởi nghĩa đã kết thúc thành công với việc đánh bại quân Minh và giành lại độc lập tự chủ cho nước Đại Việt, cùng việc thành lập nhà Hậu Lê.

Ai là người lãnh đạo nghĩa quân Lam Sơn chống lại quân Minh?

Câu hỏi: Ai là người lãnh đạo nghĩa quân Lam Sơn chống lại quân Minh?

A. Lê Lợi

B. Nguyễn Trãi

C. Lê Lai

D. Đinh Liệt

Trả lời: Đáp án đúng: A.Lê Lợi

Giải thích: 

Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn (1418-1427) là một cuộc nổi dậy chống lại cuộc xâm lược của quân Minh, được lãnh đạo bởi Lê Lợi. Cuộc khởi nghĩa đã kết thúc thành công với việc đánh bại quân Minh và giành lại độc lập tự chủ cho nước Đại Việt, cùng việc thành lập nhà Hậu Lê.

Thông tin kiến thức tham khảo Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn (1418-1427)

Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa

 Lê Lợi (1385 - 1433) là một hào trưởng có uy tín lớn ở vùng Lam Sơn (Thanh Hoá).

Trước cảnh nước mất, nhân dân lầm than, ông đã dốc hết tài sản để chiêu tập nghĩa sĩ, bí mật liên lạc với các hào kiệt, xây dựng lực lượng và chọn Lam Sơn làm căn cứ cho cuộc khởi nghĩa. Lam Sơn nằm bên tả ngạn sông Chu, nối liền giữa đồng bằng với miền núi và có địa thế hiểm trở, cũng là nơi giao tiếp của các dân tộc Việt, Mường, Thái.

Nghe tin Lê Lợi đang chuẩn bị khởi nghĩa ở Lam Sơn, nhiều người yêu nước từ các địa phương đã tìm về hội tụ ngày càng đông, trong đó có Nguyễn Trãi.

- Đầu năm 1416, Lê Lợi cùng 18 người trong bộ chỉ huy cuộc khởi nghĩa đã tổ chức hội thề ở Lũng Nhai (Thanh Hoá) và đọc bài văn thề.

- Ngày 2 tháng 1 năm Mậu Tuất (7-2- 1418), Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn và tự xưng là Bình Định Vương.

Những ngày đâu cuộc khởi nghĩa

Lực lượng còn yếu, nghĩa quân Lam Sơn đã gặp rất nhiều khó khăn, nguy nan. Quân Minh nhiều lần tấn công, bao vây căn cứ Lam Sơn. Nghĩa quân ba lần phải rút lên núi Chí Linh (Lang Chánh, Thanh Hoá) và phải liên tiếp chống lại sự vây quét của quân giặc.

Trong gian khổ đã có rất nhiều tấm gương chiến đấu hi sinh dũng cảm, tiêu biểu là Lê Lai.Giữa năm ‘1418, quân Minh huy động một lực lượng bao vây chặt căn cứ Chí Linh, quyết bắt giết Lê Lợi.

Trước tình hình nguy cấp đó, Lê Lai đã cải trang làm Lê Lợi, chỉ huy một toán quân liều chết phá vòng vây quân giặc. Lê Lai cùng toán quân cảm tử đã hi sinh. Quân Minh tưởng rằng đã giết được Lê Lợi nên rút quân.

- Cuối năm 1421, quân Minh huy động hơn 10 vạn lính mở cuộc vây quét lớn vào căn cứ của nghĩa quân. Lê Lợi lại phải rút quân lên núi Chí Linh. Tại đây, nghĩa quân đã trải qua muôn vàn khó khăn, thiếu lương thực trầm trọng, đói, rét. Lê Lợi phải cho giết cả voi, ngựa (kể cả con ngựa của ông) để nuôi quân.

Mùa hè năm 1423, Lê Lợi đề nghị tạm hoà và được quân Minh chấp thuận.

- Tháng 5 – 1423, nghĩa quân trở về căn cứ Lam Sơn.

- Cuối năm 1424, do bị thất bại trong âm mưu mua chuộc Lê Lợi, quân Minh trở mặt, tấn công nghĩa quân.

- Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chuyển sang giai đoạn mới.

Giải phóng Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hóa và tiến quân ra Bắc (1424 – 1426)

1. Giải phóng Nghệ An (năm 1424)

-  Nguyễn Chích đưa kế hoạch chuyển quân vào Nghệ An rồi quay ra đánh Đông Đô.

- Nghĩa quân tiến vào miền Tây Nghệ An.

Các trận đánh lớn của ta:

  • Ngày 12 – 10 – 1414, tập kích đồn Đa Căng và giành thắng lợi.
  • Hạ thành Trà Lân.
  • Nghi binh, tập kích, tiêu diệt địch ở ải Khả Lưu, Bồ Ải.
  • Giải phóng Nghệ An, Diễn Châu, Thanh Hoá

2. Giải phóng Tân Bình, Thuận Hoá (năm 1425)

Tháng 8-1425, các tướng Trần Nguyên Hãn, Lê Ngân… được lệnh chỉ huy một lực lượng mạnh từ Nghệ An tiến vào Tân Bình (Quảng Bình, Bắc Quảng Trị) và Thuận Hoá (Thừa Thiên Huê). Nghĩa quân nhanh chóng đập tan sức kháng cự của quân giặc, giải phóng Tân Bình, Thuận Hoá.

Như vậy, trong vòng 10 tháng (từ tháng 10 -1424 đến tháng 8 -1425), nghĩa quân Lam Sơn đã giải phóng được một khu vực rộng lớn từ Thanh Hoá vào đến đèo Hải Vân. Quân Minh chỉ còn giữ được mấy thành luỹ bị cô lập và bị nghĩa quân vây hãm.

3. Tiến quân ra Bắc, mở rộng phạm vị hoạt động (cuối 1426)

Tháng 9 – 1426, Lê Lợi chia làm 3 đạo quân tiến quân ra Bắc.

- Đạo thứ nhất tiến quân giải phóng Tây Bắc, ngăn chặn viện binh giặc từ Vân Nam.

- Đạo thứ hai giải phóng hạ lưu sông Nhị, ngăn chặn đường rút quân của giặc từ Nghệ An về Đông Quan, chặn viện binh từ Quảng Tây sang.

-Đạo thứ ba tiến thẳng ra Đông Quan.

-Kết qủa: nghĩa quân thắng nhiều trận lớn, địch cố thủ trong thành Đông Quan.

---> Cuộc kháng chiến chuyển sang giai đoạn phản công.

4. Khởi nghĩa Lam Sơn toàn thắng (Cuối năm 1926 – cuối năm 1427)

Trận Tốt Động – Chúc Động (cuối năm 1426)

Hoàn cảnh:

Sau 8 năm khởi nghĩa, nghĩa quân Lam Sơn ngày càng trở nên lớn mạnh và vững vàng, chiếm lại được vùng đất lớn kéo dài từ Thanh Hóa trở vào đến Tân Bình, Thuận Hóa (thuộc Thừa Thiên – Huế hiện nay).

Trước tình hình này, vì nghĩ rằng quân của Lý Triện từ xa đến nên quân Minh đã dốc toàn bộ binh lực ra đánh và trận đánh này khi đó được diễn ra ở xứ Ninh Kiều, thuộc Ứng Thiên

Diễn biến:

Tháng 10-1426, 5 vạn viện binh giặc do Vương Thông chỉ huy kéo vào thành Đông Quan, nâng số quân Minh ở đây lên 10 vạn.

Để giành thế chủ động, ngày 7-11-1426, Vương Thông tiến đánh quân chủ lực của nghĩa quân ở Cao Bộ (Chương Mĩ, Hà Nội).

Nắm được ý đồ và hướng tiến công của giặc, nghĩa quân đã đặt phục kích ở Tốt Động và Chúc Động.

Khi quân Minh lọt vào trận địa, nghĩa quân đã nhất tề xông thẳng, đánh tan đội hình của chúng.

Kết quả:

- Trận Tốt Động Chúc Động giành thắng lợi đã tiêu diệt khoảng 5 vạn quân Minh cùng với hơn 1 vạn quân Minh bị bắt sống

Ý nghĩa lịch sử:

- Làm thay đổi tương quan lực lượng giữa ta và địch.

- Đập tan kế hoạch tấn công của Vương Thông, làm thất bại bước đầu âm mưu của chúng.

- Tạo điều kiện vây hãm Đông Quan, giải phóng nhiều châu Huyện.

Trận Chi Lăng - Xương Giang (tháng 10- 1427)

Đầu tháng 10 – 1427, 15 vạn viện binh được chia thành hai đạo từ Trung Quốc kéo sang.

- Một đạo do Liễu Thăng chỉ huy từ Quảng Tây kéo vào Lạng Sơn.

- Đạo thứ hai do Mộc Thạnh chỉ huy từ Vân Nam kéo vào theo hướng Hà Giang.

Nghe tin cả hai đạo viện binh bị tiêu diệt, Vương Thông ở Đông Quan khiếp đảm vội xin hoà và chấp nhận mở hội thề Đông Quan (10 – 12 – 1427) để được an toàn rút quân về nước. Lê Lợi chấp nhận lời xin hoà của Vương Thông, cuộc khởi nghĩa chống quân Minh kết thúc thắng lợi.

- Ngày 3 – 1 – 1428, toán quân cuối cùng của Vương Thông rút khỏi nước ta. Đất nước sạch bóng quân thù.

Thông qua bài viết trên đây của LDG, hi vọng đã giáp đáp cho quý bạn đọc về câu hỏi "Ai là người lãnh đạo nghĩa quân Lam Sơn chống lại quân Minh?". Hãy tiếp tục theo dõi những bài viết khác của ldg.com.vn để biết thêm nhiều thông tin thú vị liên quan đến tin tức, đời sống, giải trí nhé.